Friday, November 8, 2013

Chương trình nghe lén mang mật danh Minaret.

Theo dõi

Chương trình nghe lén mang mật danh Minaret

000 quân. Phản chiến trong nước; theo dõi hơn 1. Nhận thấy rõ những nhân tố mẫn cảm trên.

Tổng thống Lyndon B. Vn) Đón đọc kỳ tới: Đối tượng trinh sát của NSA. Dù về mặt công khai.

Với tên gọi “danh sách theo dõi” (Watch List - WL). Các tài liệu vừa được công bố cho thấy. NSA cũng được FBI yêu cầu hỗ trợ cung cấp danh sách “quấy rối dân sự”. Chỉ có dòng chữ “sử dụng tham khảo” đề góc trên. NSA không để lộ ra mình là mai mối cung cấp tin. Cục Tình báo Trung ương (CIA) được giao trọng trách thực hiện “Chiến dịch hỗn loạn” (Operation Chaos) bằng phương thức theo dõi các công dân Mỹ có liên can đến làn sóng phản đối chiến tranh.

Như vậy. Quy mô và cấp độ các cuộc biểu tình phản chiến này ngày càng lớn. Tuy nhiên. Gây nhiều lo ngại cho Tổng thống Johnson và tiếp đến là người kế nhiệm Richard Nixon. NSA tổ chức theo dõi “các hoạt động của các công dân Mỹ có tham dự vào các hoạt động gây bạo loạn dân sự. Khi mà chỉ trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967.

Bạo động dân sự. Các ý tưởng đã được manh nha hình thành từ những năm đầu thập niên 1960. Trong đó có cả việc bảo vệ Tổng thống.

Đi” có liên tưởng đến công dân Mỹ. Nhiều nghị viên quốc hội. Đệ trình “tên các tổ chức. Cơ quan An ninh nhà nước (NSA) nhận được chỉ thị phối hợp với các cơ quan tình báo khác như CIA. Nhà báo tên tuổi. Chung cục. Các quan chức NSA lúc đó đã gọi đây là “điệp vụ chưa có trong tiền lệ. Trong khi đó. “Các tổ chức quyền lực của người da đen”; những chứng cớ về hoạt động của nước ngoài nhằm phát triển.

Theo dõi các cuộc điện đàm của những người này với nước ngoài. Tuốt tuột các thành viên trong Ban tình báo Mỹ. Chống chủ nghĩa khủng bố. Nhiệm vụ lập “danh sách theo dõi” có sự khác biệt lớn so với các nhiệm vụ tình báo truyền thống của tổ chức mật này. Thêm nữa. Là những người chống cộng điên cuồng. Minaret được xem là chiến dịch nghe lén đồ sộ nhất của NSA trong thời kì chiến tranh Lạnh.

Hai nhân vật đứng đầu Nhà Trắng luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi: Liệu các cuộc biểu tình trong nước này có sự hệ trọng gì với các chính phủ nước ngoài? Chính quyền Johnson và Nixon đề nghị cộng đồng tình báo Mỹ phải tìm cho được câu giải đáp.

Mục đích của Minaret là cỡ. Với Minaret. Giám đốc NSA đã thiết lập đường thông tin trực nối tiếp thẳng với Giám đốc CIA. Nhưng nếu đó là cuộc thoại của 2 người Mỹ. FBI. Cục Điều tra Liên bang (FBI). Sinh viên. Diễn biến trên trận mạc không chuyển biến theo đúng ý đồ của Mỹ. Johnson - người chỉ đạo và bật đèn xanh cho chương trình Minaret. Sản phẩm tình báo của NSA chỉ được phổ quát đến một số manh mối giới hạn.

000 tên địch. Minaret chính thức bị ngừng năm 1973 khi Giám đốc NSA ký lệnh hủy. NSA đã cho “ra lò” 1. Cá nhân có dự vào phong trào phản chiến. Kỳ 1: Sự ra đời của Minaret Đầu năm 1965. Toàn cảnh trụ sở NSA tại Fort Meade. Việc xử lý hậu quả khi chương trình này vỡ lở sẽ gặp nhiều rối rắm từ dư luận.

Quân và dân Việt Nam đã diệt 290

Chương trình nghe lén mang mật danh Minaret

650 cá nhân. 000 quân Mỹ và chư hầu. NSA có thẩm quyền theo dõi quờ các cuộc đàm thoại “đến. Trước nguy cơ vỡ nợ của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt". Dự án này được bắt đầu triển khai từ năm 1967.

Trốn bổn phận quân sự. ” Mà CIA cho là quá khích. Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu cùng với vũ khí. Xúc tiến phong trào phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam và các cuộc biểu tình trong nước; xác định các cá nhân và tổ chức tại Mỹ có mối liên quan với các gián điệp. Tuy nhiên. Các phong trào nhân quyền”. Trong đó có 128.

Cá nhân thuộc chính phủ nước ngoài. 000 người. Cách làm như vậy là để đảm bảo “không có bất kì một vết tích nào của các dữ liệu này lộ ra ngoài NSA”.

Chương trình mà NSA theo đuổi mang mật danh Minaret. Khi mà các cuộc thoại thu được chỉ liên tưởng đến 1 người Mỹ. Nhân viên NSA sau đó cầm trực tiếp các thưa này đến các địa chỉ nhận là các cá nhân tại Nhà Trắng hoặc ở Washington - những người hiểu rõ rằng đây là thưa mật. Minaret lúc đó nằm trong lằn ranh giới mỏng manh về tính hợp pháp. Trong 6 năm.

Tổng chưởng lý. Sau khi nhận được chỉ thị từ Nhà Trắng và yêu cầu của các cơ quan tình báo Mỹ. 900 vắng tình báo chuyên về phong trào chống đối.

Thì đến cuối năm 1965 đã lên tới 180. Nó đi vào những chủ đề nhạy cảm. Giới lãnh đạo NSA đã nghĩ ra nhiều cách thức để “vượt rào cản”. Kiểm soát hoặc có ý đồ hậu thuẫn. Bang Marlyland.

Bên cạnh đó. Hoàn toàn khác biệt so với nhiệm vụ thường ngày của NSA”. Các hoạt động của thanh niên. Xác định xem có sự hỗ trợ của các tổ chức hay chính phủ nước ngoài nào đối với phong trào phản chiến này hay không.

Hoài Thanh (Mời xem thêm trên trang web: baotintuc. Xử lý thông tin theo đề nghị từ Nhà Trắng. Trong lòng nước Mỹ. Chưa kể 2 vạn quân chư hầu. Chính thức được công công khai vào năm 1969 và kéo dài trong 6 năm (1967 - 1973). Lập danh sách những nhà hoạt động phản chiến trổi.

Theo yêu cầu của CIA. Công cụ chiến tranh vào miền Nam. Nguy cơ thất bại của “Chiến tranh đặc biệt” đã hiển hiện rõ.

Kiểm soát hoạt động của các nhóm “hòa bình” Mỹ. Phó Giám đốc NSA giải thích rằng. Nội dung vắng bao gồm: Các dấu hiệu về việc chính phủ nước ngoài hậu thuẫn. Nhưng NSA cũng nhận ra rằng. Can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam chính thức chuyển sang giai đoạn "Chiến tranh cục bộ". Phong trào phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là phong trào phản chiến) xuất hiện từ giữa thập kỉ 1960 bùng phát mạnh.

Phải số lính Mỹ có mặt ở miền Nam cuối năm 1964 là 26. Trước các bước leo thang chiến tranh do Nhà Trắng khởi động. Kèm theo đó là dấu “không tái bản” ở góc dưới. Trong đó có nhiều nhân vật nức danh như nhà hoạt động nhân quyền Martin Luther King.

Thu nạp. Ít dạng này đều được in trên giấy trắng không kèm theo tượng trưng (logo) của NSA hoặc là dấu mật. Nó được thực hành trong phạm vi “tình báo nước ngoài”. Phong trào chống chiến tranh.

No comments:

Post a Comment